Nguồn gốc Hầu_tước

Tại Trung Hoa cổ đại, hầu tước (chữ Hán: 侯爵) là tước vị do quân chủ tứ phong kèm theo quyền cai trị lãnh địa. Theo sách Lễ ký, phần "Vương chế", chép "Vương giả chi chế lộc tước, công hầu bá tử nam, phàm ngũ đẳng" (Bậc vương giả đặt ra các lộc tước, gồm công hầu bá tử nam, có 5 bậc cả thảy). Theo đó, hầu tước là tước vị chỉ sau tước công. Theo huyền sử, vào thời nhà Chu, các chư hầu thụ tước Hầu gồm có nước Lỗ, nước Tềnước Trần.

Thời Tần, Hán, hệ thống tước phong được quy định gồm 20 bậc. Tước vị Hầu là tước vị cao nhất được phong cho các văn quan võ tướng không phải là người trong tông thất, phân thành 2 bậc Quan nội hầu và Liệt hầu. Trong đó, liệt hầu chiếm đa số. Thời Đường Tống, có tước vị Huyện hầu, thời Minh là tước vị Hầu. Thời Thanh, tước vị Hầu được phân thành 3 bậc: Nhất, Nhị, Tam đẳng.

Trong lịch sử Trung Hoa phong kiến, tước vị Hầu chỉ phong cho nam nhân, tuy nhiên vẫn có một số ngoại lệ phong cho các nữ hầu tước. Nhất là vào thời Tây Hán, có thể kể đến Lỗ hầu Để thị (còn ghi là Tỳ thị), Âm An hầu (chị dâu của Lưu Bang), Minh Thư Đình hầu Hứa Phụ, Toản hầu (đồng tước vị) (phu nhân của Tiêu Hà), Lâm Quang hầu Lã Tu. Thời Minh, có nữ tướng Tần Lương Ngọc, vì có chiến công nên được Minh Tư tông phong làm Trung Trinh hầu.

Tại châu Âu, Hầu tước (hay Nữ hầu tước nếu là phụ nữ) (UK: /ˈmɑːrkw[invalid input: 'ɨ']s/; Pháp: "marquis", /mɑːrˈkiː/). Đây là tước vị tương tự như phó Công tước – Người thay mặt Công tước điều hành Lãnh thổ. Tước vị này được sử dụng nhiều ở khu vực nước Nga trước khi thành Đế quốc Nga (1721).

Trong đất Đức, một bá tước là một người cai trị của một lãnh thổ (ví dụ bao gồm bá tước Brandenburg, bá tước Baden và bá tước Bayreuth) và người đó không bao giờ là một nhà quý tộc chỉ như marquesses / marquises ở Tây và Nam Âu. Các nhà lãnh đạo Đức không trao và giữ danh hiệu hầu tước ở Trung Âu, phổ biến ở Ý và Tây Ban Nha.